1. Khái quát
Bên cạnh Hán ngữ Latin hóa là Hán ngữ giản hóa (simplified Chinese characters). Sự giản hóa (simplification) có ưu điểm giúp việc viết chữ mau hơn vì giản lược số nét bút của những chữ nhiều nét, như chữ long 龍 (16 nét) giản thành 龙 (5 nét), chữ dụ 籲 (32 nét) giản thành 吁 (6 nét). Tuy nhiên người ta ngờ rằng mục đích của sự giản hóa nhằm vào phương diện chính trị hơn là phương diện ngữ học, bởi vì nhiều vấn đề ngữ học đã nảy sinh từ việc giản hóa này.
Bên cạnh Hán ngữ Latin hóa là Hán ngữ giản hóa (simplified Chinese characters). Sự giản hóa (simplification) có ưu điểm giúp việc viết chữ mau hơn vì giản lược số nét bút của những chữ nhiều nét, như chữ long 龍 (16 nét) giản thành 龙 (5 nét), chữ dụ 籲 (32 nét) giản thành 吁 (6 nét). Tuy nhiên người ta ngờ rằng mục đích của sự giản hóa nhằm vào phương diện chính trị hơn là phương diện ngữ học, bởi vì nhiều vấn đề ngữ học đã nảy sinh từ việc giản hóa này.
Thực chất sự giản hóa này cũng chẳng mới mẻ gì vì tự ngàn xưa người Trung Quốc đã biết cách giản lược số nét bút của chữ Hán, và tạo ra một thư thể gọi là thảo thư 草書 bao gồm chương thảo 章草, kim thảo 今草 và cuồng thảo 狂草 với các đại thư gia tiêu biểu như Trương Chi 張芝, Trương Húc 張旭, Hoài Tố 懷素 , và đặc biệt là thảo thánh nhị vương 草聖二王 tức cha con Vương Hi Chi 王羲之 và Vương Hiến Chi 王獻之. Thảo thư của nhị Vương đã trở thành chuẩn mực cho thế nhân nghiên tập kể từ đời Đông Tấn (317–420) đến nay và gọi là chương thảo 章草. Trương Húc và Hoài Tố được gọi là cuồng thảo nhị tuyệt 狂草二絕 hay điên Trương túy Tố 顛張醉素 (Trương Húc điên, Hoài Tố say). Nhưng thảo thư chỉ là một thư thể mang tính cách nghệ thuật và mức độ sử dụng cũng chỉ trong phạm vi giao tiếp thân quen (informal communication). Hầu hết trong công văn chứng từ người ta không được phép dùng thảo thư, mà phải dùng khải thư 楷書 còn gọi chữ chân 真. Như vậy giản thể tự hiện đại và chữ thảo truyền thống có những dị biệt như sau:
* Giản thể tự được dùng chính thức và có tính bắt buộc tại Hoa Lục trong mọi giao dịch giấy tờ, công văn, chứng từ, trong học đường, nơi công cộng, và trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Từ xưa đến nay thảo thư không được dùng với cách thức như trên, mà chỉ dùng trong thư từ thân mật, các tư liệu cá nhân, và chủ yếu là trong các tác phẩm thư pháp. Hiện nay không phải người Trung Quốc nào cũng đọc được chữ thảo.
* Người Trung Quốc kế thừa nguyên tắc của chữ thảo nhưng sáng tạo ra chữ giản thể gần như khác hẳn chữ thảo. Tuy vậy ta có thể thấy một số nét của giản thể tự là vay mượn ở chữ thảo, như bộ phận (讠) bên trái chữ ngữ 语 chính là một thảo phù 草符 thay cho ngôn 言, túc 足, thần 臣, thất (sơ) 疋, vân 云, vong 亡 nhưng trong chữ giản thể nó chỉ thay cho ngôn 言 mà thôi. Chữ dữ 与 giản thể chính là vay mượn từ chữ thảo của dữ 與 phồn thể .
* Chữ giản thể ước chừng 1000 chữ nhưng mỗi chữ Hán đều có chữ thảo riêng.
* Mỗi chữ thảo cố gắng gói gọn trong một nét, nhất là cuồng thảo, nhưng chữ giản thể ít nét nhất là 2 nét và có 5 chữ là: xưởng 厂 (廠), bặc 卜 (蔔), nhi 儿 (兒) , kỷ 几 (幾), và liệu 了(膫).
* Người Trung Quốc kế thừa nguyên tắc của chữ thảo nhưng sáng tạo ra chữ giản thể gần như khác hẳn chữ thảo. Tuy vậy ta có thể thấy một số nét của giản thể tự là vay mượn ở chữ thảo, như bộ phận (讠) bên trái chữ ngữ 语 chính là một thảo phù 草符 thay cho ngôn 言, túc 足, thần 臣, thất (sơ) 疋, vân 云, vong 亡 nhưng trong chữ giản thể nó chỉ thay cho ngôn 言 mà thôi. Chữ dữ 与 giản thể chính là vay mượn từ chữ thảo của dữ 與 phồn thể .
* Chữ giản thể ước chừng 1000 chữ nhưng mỗi chữ Hán đều có chữ thảo riêng.
* Mỗi chữ thảo cố gắng gói gọn trong một nét, nhất là cuồng thảo, nhưng chữ giản thể ít nét nhất là 2 nét và có 5 chữ là: xưởng 厂 (廠), bặc 卜 (蔔), nhi 儿 (兒) , kỷ 几 (幾), và liệu 了(膫).
2. Nguyên tắc giản hóa Hán tự
Muốn nhận dạng giản thể nhanh và tương đối chính xác, ta cần nhớ nguyên tắc giản hóa như sau:
Giản hóa dựa trên sự đồng âm: Như chữ lý 里 /lĭ/ (dặm) phồn thể được dùng để giản hóa chữ lý 裏 (ở trong) trên cơ sở đồng âm. Tương tự, chữ diện 面 /miàn/ (mặt) phồn thể cũng là giản thể của miến 麵; chữ hậu 后 /hòu/ (hoàng hậu) phồn thể cũng là giản thể của hậu 後(phía sau).
Giản hóa dựa vào sự hội ý: Hội ý 會意 là một trong sáu cách tạo chữ (lục thư 六書) mà Hứa Thận 許慎 định nghĩa: «Tỉ loại hợp nghị, dĩ kiến chỉ huy.» 比類合誼以見指撝 (so sánh các loại cho hợp nhau mà chỉ ra ý nghĩa). Như chữ chiêm 占 gồm khẩu 口 (miệng) và bốc 卜 (bói), hợp nghĩa là bói xem lành dữ. Dựa vào sự hội ý, chữ bảo 寶 nghĩa là quý báu được giản hóa thành 宝, gồm miên 宀 và ngọc 玉, ngụ ý trong nhà có ngọc tức là có của báu hay sự quý báu.
Giản hóa dựa vào sự hài thanh: Hài thanh 諧聲 còn gọi là hình thanh 形聲 cũng là một cách khác của lục thư mà Hứa Thận định nghĩa là: «Dĩ sự vi danh, thủ thí tương thành.» 以事為名取譬相成 (lấy sự làm tên, lấy thí dụ mà thành). Chữ cấu tạo bằng hình thanh hay hài thanh gồm một bộ phận chỉ nghĩa và một bộ phận chỉ âm, như chữ mộc 沐 /mù/ (tắm gội) lấy thủy 氵 chỉ nghĩa và mộc 木 /mù/ chỉ âm. Chữ ưu 優 /yōu/ (ưu tú) có bộ phận chỉ âm là ưu 憂 /yōu/ (ưu sầu) và đồng âm với vưu 尤. Ưu 憂 giản hóa thành 忧 nên 優 giản hóa thành 优.
Giản hóa bằng cách bỏ bớt một số nét: Như điện 電 (điện) giản thành 电, khai 開 (mở ra) giản thành 开. Vân 雲 (mây) giản thành 云. Chữ có những thành phần giống nhau như trùng 蟲 (côn trùng) giản thành 虫, ngoại trừ chữ tinh 晶, sâm 森, phẩm 品, v.v...
Giản hóa bằng cách thay một nhóm nét bằng một vài nét: Như đoạn 斷 (cắt đứt), biên 邊 (biên giới), loạn 亂 (hỗn loạn) và lao 勞 (lao động) giản thành 断, 边, 乱, và 劳.
Giản hóa bằng cách tạo một phù hiệu thay cho nhiều nhóm nét khác nhau: Như phù hiệu 又 thay cho bộ phận bên trái của các chữ 鄧 (đặng: họ Đặng), 雞 (kê: gà), 戲 (hí: giỡn), 難 (nan: khó), 勤 (khuyến: khuyên bảo), 對 (đối: đúng, đối xứng) để có các giản thể tự 邓, 鸡, 戏, 难, 劝, 对. Phù hiệu 又 còn thay 鳥 (điểu: chim) và 堇 (cẩn: rau cần) trong chữ phụng 鳳 (chim phượng) và cận 僅 (chỉ có, nhưng) để giản thành 凤 và 仅.
Giản hóa bằng cách tạo hẳn chữ mới thật ít nét: Như linh 靈 (linh thiêng) và thể 體 (hình thể) bị thay thế bằng 灵 và 体.
Muốn nhận dạng giản thể nhanh và tương đối chính xác, ta cần nhớ nguyên tắc giản hóa như sau:
Giản hóa dựa trên sự đồng âm: Như chữ lý 里 /lĭ/ (dặm) phồn thể được dùng để giản hóa chữ lý 裏 (ở trong) trên cơ sở đồng âm. Tương tự, chữ diện 面 /miàn/ (mặt) phồn thể cũng là giản thể của miến 麵; chữ hậu 后 /hòu/ (hoàng hậu) phồn thể cũng là giản thể của hậu 後(phía sau).
Giản hóa dựa vào sự hội ý: Hội ý 會意 là một trong sáu cách tạo chữ (lục thư 六書) mà Hứa Thận 許慎 định nghĩa: «Tỉ loại hợp nghị, dĩ kiến chỉ huy.» 比類合誼以見指撝 (so sánh các loại cho hợp nhau mà chỉ ra ý nghĩa). Như chữ chiêm 占 gồm khẩu 口 (miệng) và bốc 卜 (bói), hợp nghĩa là bói xem lành dữ. Dựa vào sự hội ý, chữ bảo 寶 nghĩa là quý báu được giản hóa thành 宝, gồm miên 宀 và ngọc 玉, ngụ ý trong nhà có ngọc tức là có của báu hay sự quý báu.
Giản hóa dựa vào sự hài thanh: Hài thanh 諧聲 còn gọi là hình thanh 形聲 cũng là một cách khác của lục thư mà Hứa Thận định nghĩa là: «Dĩ sự vi danh, thủ thí tương thành.» 以事為名取譬相成 (lấy sự làm tên, lấy thí dụ mà thành). Chữ cấu tạo bằng hình thanh hay hài thanh gồm một bộ phận chỉ nghĩa và một bộ phận chỉ âm, như chữ mộc 沐 /mù/ (tắm gội) lấy thủy 氵 chỉ nghĩa và mộc 木 /mù/ chỉ âm. Chữ ưu 優 /yōu/ (ưu tú) có bộ phận chỉ âm là ưu 憂 /yōu/ (ưu sầu) và đồng âm với vưu 尤. Ưu 憂 giản hóa thành 忧 nên 優 giản hóa thành 优.
Giản hóa bằng cách bỏ bớt một số nét: Như điện 電 (điện) giản thành 电, khai 開 (mở ra) giản thành 开. Vân 雲 (mây) giản thành 云. Chữ có những thành phần giống nhau như trùng 蟲 (côn trùng) giản thành 虫, ngoại trừ chữ tinh 晶, sâm 森, phẩm 品, v.v...
Giản hóa bằng cách thay một nhóm nét bằng một vài nét: Như đoạn 斷 (cắt đứt), biên 邊 (biên giới), loạn 亂 (hỗn loạn) và lao 勞 (lao động) giản thành 断, 边, 乱, và 劳.
Giản hóa bằng cách tạo một phù hiệu thay cho nhiều nhóm nét khác nhau: Như phù hiệu 又 thay cho bộ phận bên trái của các chữ 鄧 (đặng: họ Đặng), 雞 (kê: gà), 戲 (hí: giỡn), 難 (nan: khó), 勤 (khuyến: khuyên bảo), 對 (đối: đúng, đối xứng) để có các giản thể tự 邓, 鸡, 戏, 难, 劝, 对. Phù hiệu 又 còn thay 鳥 (điểu: chim) và 堇 (cẩn: rau cần) trong chữ phụng 鳳 (chim phượng) và cận 僅 (chỉ có, nhưng) để giản thành 凤 và 仅.
Giản hóa bằng cách tạo hẳn chữ mới thật ít nét: Như linh 靈 (linh thiêng) và thể 體 (hình thể) bị thay thế bằng 灵 và 体.
3. Sự bất toàn của chữ Giản thể
Chẳng có một hệ thống văn tự nào mà không có sự bất toàn. Cho nên giản thể tự vẫn không tránh khỏi sự bất toàn dù rằng số lượng chữ chẳng có bao nhiêu. Sự giản hóa nảy sinh những khiếm khuyết và sự thiếu nhất quán của giản thể tự:
Vấn đề giả tá: Giả tá là rắc rối cố hữu của Hán tự mà Hứa Thận định nghĩa: «Giả tá giả, bản vô kỳ tự, y thanh thác sự.» 假借本無其字依 聲托事 (Giả tá là vốn chưa có chữ nhưng dựa vào âm thanh để gởi sự). Học giả đời Thanh là Du Việt 俞樾 từng cảnh giác rằng: «Độc cổ nhân thư, bất ngoại hồ chính cú đậu, thẩm tự nghĩa, thông cổ văn giả tá. Nhi tam giả chi trung, thông giả tá vưu yếu.» 讀古人書不外乎正句讀審字義通古 文假借而三者之中通假借尤要 (Đọc sách người xưa [cần chú ý] không ngoài [ba điều]: Đọc đúng [phạm vi] câu văn [tức là ngắt câu cho đúng bởi cổ văn viết không chấm câu, gọi là bạch văn 白文], tra xét đúng nghĩa chữ, và tinh thông chữ giả tá trong cổ văn. Trong ba điều ấy, tinh thông giả tá là tối quan trọng). Trong cổ tịch, đặc biệt là cổ tịch thời Tiên Tần Lưỡng Hán, hiện tượng giả tá xuất hiện đầy rẫy. Không thông thạo giả tá thì người đọc sẽ hiểu sai tự nghĩa. Kinh Dịch nơi quẻ Càn có câu 現龍在田 mà các nhà chú giải đều đồng ý chữ 現 hiện phải đọc là 見 kiến. 現 là giả tá tự của 見. Bản nghĩa của 見 là nhìn thấy và nó là giả tá nghĩa của 現. Bản kinh Dịch hiện hành còn ít chữ giả tá so với bản Bạch Thư Chu Dịch 帛書周易 (Chu Dịch viết trên lụa) mà người ta khai quật được ở ngôi Hán mộ số 3 tại Mã Vương Đôi 馬王堆 thuộc Trường Sa 長沙 (tỉnh Hồ Nam 湖南, Trung Quốc) năm 1972-1974. Trong Luận Ngữ và Mạnh Tử ta còn thấy 說 là giả tá tự của 悅 và 由 là giả tá tự của 猶. Sơ lược về giả tá như trên để ta thấy rằng việc giản hóa tự trên cơ sở đồng âm đã sinh sôi thêm hiện tượng giả tá trong Hán ngữ hiện đại. Rõ ràng, 后 (hậu: hoàng hậu), 面 (diện: mặt), 里 (lý: dặm) là giả tá tự của 後 (hậu: sau), 麵 (miến: bánh mì, mì), 裏(lý: bên trong). Xét về mặt ngữ nghĩa học (semantics) mỗi chữ (tự 字) có ba yếu tố hình 形 âm 音 nghĩa 義 để khu biệt nhau. Thực chất có chữ lại đa hình, đa âm, và đa nghĩa vốn dĩ gây rối loạn cho người học thế mà sự giả tá ở giản thể tự lại làm nhoè đi thêm cái ranh giới hình và nghĩa của chữ khiến người học càng thêm loạn tâm rối trí.
Thiếu nhất quán: Giản thể tự bộc lộ sự thiếu nhất quán như sau:
* Nói chung ta có thể phỏng đoán chữ giản thể chưa biết nhờ một số chữ giản thể đã biết. Như 貝 (bối), 見 (kiến), 頁 (hiệt), 門 (môn), 車 (xa), 馬 (mã), 鳥 (điểu), thường giản thành 贝, 见, 页, 门, 车, 马, 鸟 cho dù đứng riêng thành chữ hoặc là bộ phận của một chữ. Ta đã biết 又 thay cho một bộ phận của các chữ 鄧 (đặng), 雞 (kê), 戲 (hí), 難 (nan), 勤 (khuyến), 對 (đối) để có các giản thể tự 邓, 鸡, 戏, 难, 劝, 对. Nhưng 又 lại không dùng thay cho 登 trong những chữ 凳, 澄, 磴, 瞪, 蹬, 簦, 鐙, đặc biệt 燈 thì giản thành 灯. Yếu tố 又 còn thay 堇 trong chữ 僅 để giản thành 仅 trừ các chữ 謹, 蓳, 瑾, 饉, 槿, 廑, 勤, 覲, 斳, 螼.
* Bộ phận chỉ âm 咼 giản thành 寸 hoặc 呙 hoặc giữ nguyên. Các chữ 過, 撾 giản thành 过, 挝; các chữ 渦, 窩, 蝸, 萵, 禍 giản thành 涡, 窝, 蜗, 莴, 祸; nhưng 騧, 緺 không giản gì cả.
* Ngược lại, một ký hiệu có thể thay cho nhiều nhóm nét như bộ phận bên trong các chữ 區, 風, 岡, 鹵 bị thay bằng ký hiệuㄨ để có các chữ giản thể là 区, 风, 冈, 卤.
* Bộ phận chỉ âm /o/ hay /u/ ở bên phải của các chữ 補, 僕, 撲 bị giản thành 卜 để được 补, 仆, 扑 vậy mà bộ phận chỉ âm trong các chữ 匍, 埔, 蒲, 濮, 璞 thì không bị giản.
* Chữ 親 giản thành 亲 nhưng chữ 襯 giản thành 衬.
* Các chữ 陽, 楊, 揚, 湯, 傷 có bộ phận chỉ âm (ở bên phải) giống nhau nhưng giản khác nhau: 阳, 杨, 扬, 汤, 伤.
Chẳng có một hệ thống văn tự nào mà không có sự bất toàn. Cho nên giản thể tự vẫn không tránh khỏi sự bất toàn dù rằng số lượng chữ chẳng có bao nhiêu. Sự giản hóa nảy sinh những khiếm khuyết và sự thiếu nhất quán của giản thể tự:
Vấn đề giả tá: Giả tá là rắc rối cố hữu của Hán tự mà Hứa Thận định nghĩa: «Giả tá giả, bản vô kỳ tự, y thanh thác sự.» 假借本無其字依 聲托事 (Giả tá là vốn chưa có chữ nhưng dựa vào âm thanh để gởi sự). Học giả đời Thanh là Du Việt 俞樾 từng cảnh giác rằng: «Độc cổ nhân thư, bất ngoại hồ chính cú đậu, thẩm tự nghĩa, thông cổ văn giả tá. Nhi tam giả chi trung, thông giả tá vưu yếu.» 讀古人書不外乎正句讀審字義通古 文假借而三者之中通假借尤要 (Đọc sách người xưa [cần chú ý] không ngoài [ba điều]: Đọc đúng [phạm vi] câu văn [tức là ngắt câu cho đúng bởi cổ văn viết không chấm câu, gọi là bạch văn 白文], tra xét đúng nghĩa chữ, và tinh thông chữ giả tá trong cổ văn. Trong ba điều ấy, tinh thông giả tá là tối quan trọng). Trong cổ tịch, đặc biệt là cổ tịch thời Tiên Tần Lưỡng Hán, hiện tượng giả tá xuất hiện đầy rẫy. Không thông thạo giả tá thì người đọc sẽ hiểu sai tự nghĩa. Kinh Dịch nơi quẻ Càn có câu 現龍在田 mà các nhà chú giải đều đồng ý chữ 現 hiện phải đọc là 見 kiến. 現 là giả tá tự của 見. Bản nghĩa của 見 là nhìn thấy và nó là giả tá nghĩa của 現. Bản kinh Dịch hiện hành còn ít chữ giả tá so với bản Bạch Thư Chu Dịch 帛書周易 (Chu Dịch viết trên lụa) mà người ta khai quật được ở ngôi Hán mộ số 3 tại Mã Vương Đôi 馬王堆 thuộc Trường Sa 長沙 (tỉnh Hồ Nam 湖南, Trung Quốc) năm 1972-1974. Trong Luận Ngữ và Mạnh Tử ta còn thấy 說 là giả tá tự của 悅 và 由 là giả tá tự của 猶. Sơ lược về giả tá như trên để ta thấy rằng việc giản hóa tự trên cơ sở đồng âm đã sinh sôi thêm hiện tượng giả tá trong Hán ngữ hiện đại. Rõ ràng, 后 (hậu: hoàng hậu), 面 (diện: mặt), 里 (lý: dặm) là giả tá tự của 後 (hậu: sau), 麵 (miến: bánh mì, mì), 裏(lý: bên trong). Xét về mặt ngữ nghĩa học (semantics) mỗi chữ (tự 字) có ba yếu tố hình 形 âm 音 nghĩa 義 để khu biệt nhau. Thực chất có chữ lại đa hình, đa âm, và đa nghĩa vốn dĩ gây rối loạn cho người học thế mà sự giả tá ở giản thể tự lại làm nhoè đi thêm cái ranh giới hình và nghĩa của chữ khiến người học càng thêm loạn tâm rối trí.
Thiếu nhất quán: Giản thể tự bộc lộ sự thiếu nhất quán như sau:
* Nói chung ta có thể phỏng đoán chữ giản thể chưa biết nhờ một số chữ giản thể đã biết. Như 貝 (bối), 見 (kiến), 頁 (hiệt), 門 (môn), 車 (xa), 馬 (mã), 鳥 (điểu), thường giản thành 贝, 见, 页, 门, 车, 马, 鸟 cho dù đứng riêng thành chữ hoặc là bộ phận của một chữ. Ta đã biết 又 thay cho một bộ phận của các chữ 鄧 (đặng), 雞 (kê), 戲 (hí), 難 (nan), 勤 (khuyến), 對 (đối) để có các giản thể tự 邓, 鸡, 戏, 难, 劝, 对. Nhưng 又 lại không dùng thay cho 登 trong những chữ 凳, 澄, 磴, 瞪, 蹬, 簦, 鐙, đặc biệt 燈 thì giản thành 灯. Yếu tố 又 còn thay 堇 trong chữ 僅 để giản thành 仅 trừ các chữ 謹, 蓳, 瑾, 饉, 槿, 廑, 勤, 覲, 斳, 螼.
* Bộ phận chỉ âm 咼 giản thành 寸 hoặc 呙 hoặc giữ nguyên. Các chữ 過, 撾 giản thành 过, 挝; các chữ 渦, 窩, 蝸, 萵, 禍 giản thành 涡, 窝, 蜗, 莴, 祸; nhưng 騧, 緺 không giản gì cả.
* Ngược lại, một ký hiệu có thể thay cho nhiều nhóm nét như bộ phận bên trong các chữ 區, 風, 岡, 鹵 bị thay bằng ký hiệuㄨ để có các chữ giản thể là 区, 风, 冈, 卤.
* Bộ phận chỉ âm /o/ hay /u/ ở bên phải của các chữ 補, 僕, 撲 bị giản thành 卜 để được 补, 仆, 扑 vậy mà bộ phận chỉ âm trong các chữ 匍, 埔, 蒲, 濮, 璞 thì không bị giản.
* Chữ 親 giản thành 亲 nhưng chữ 襯 giản thành 衬.
* Các chữ 陽, 楊, 揚, 湯, 傷 có bộ phận chỉ âm (ở bên phải) giống nhau nhưng giản khác nhau: 阳, 杨, 扬, 汤, 伤.
Vấn đề bộ thủ:
Bộ thủ là một yếu tố quan trọng của Hán tự, giúp việc tra cứu tương đối dễ dàng vì nhiều chữ được gom thành nhóm có chung một bộ thủ. Từ đời Hán, Hứa Thận phân loại chữ Hán thành 540 nhóm hay còn gọi là 540 bộ. Thí dụ, những chữ 論 (luận), 謂 (vị), 語 (ngữ) đều liên quan tới ngôn ngữ, lời nói, đàm luận v.v... nên được xếp chung vào một bộ, lấy 言 (ngôn: nói) làm bộ thủ. Đến đời Minh, Mai Ưng Tộ 梅膺祚 xếp gọn lại còn 214 bộ thủ và được dùng làm chuẩn cho đến nay. Phần lớn các bộ thủ của 214 bộ đều là chữ tượng hình và hầu như dùng làm bộ phận chỉ ý nghĩa trong các chữ theo cấu tạo hình thanh (hay hài thanh). Mỗi chữ hình thanh gồm bộ phận chỉ ý nghĩa (hay nghĩa phù 義符) và bộ phận chỉ âm (hay âm phù 音符). Đa số Hán tự là chữ hình thanh, nên tinh thông bộ thủ là một điều kiện thuận lợi tìm hiểu hình-âm-nghĩa của Hán tự. Tuy nhiên 214 bộ truyền thống này cũng có những điều bất hợp lý, và vài hệ thống bộ thủ cải cách đã ra đời chẳng hạn 132 bộ thủ của Lục Y Ngôn 陸衣言 và Giang Trọng Quỳnh 江仲瓊 phân loại Hán tự theo nét hay nhóm nét đầu tiên nên sự tra cứu rất nhanh chóng. Sự giản hóa Hán tự gây thêm rắc rối về bộ thủ:
* Bộ thủ bị thay đổi: 寫 (tả: viết; bộ 宀) giản thành 写 (bộ 冖) 護 (hộ: giúp; bộ 言) giản thành 护 (bộ 扌).
* Bộ thủ bị bỏ bớt: 電 (điện: điện lực) giản thành 电; 殺 (sát: giết) giản thành 杀; 術 (thuật: cách thức) giản thành 术.
* Bộ thủ cùng với vài nét khác bị bỏ bớt: 聲 (thanh: âm thanh) giản thành 声; 從 (tòng: theo) giản thành 从; 滅 (diệt: tiêu diệt) giản thành 灭.
* Bộ thủ mất vì trọn chữ bị thay trọn: 備 (bị: đầy đủ; bộ亻) giản thành 备; 農 (nông: nghề nông; bộ 辰) giản thành 农; 歲 (tuế: năm; bộ 止) giản thành 岁; 買 (mãi: mua; bộ 貝) giản thành 买; 關 (quan: quan hệ; bộ 門) giản thành 关.
Bộ thủ là một yếu tố quan trọng của Hán tự, giúp việc tra cứu tương đối dễ dàng vì nhiều chữ được gom thành nhóm có chung một bộ thủ. Từ đời Hán, Hứa Thận phân loại chữ Hán thành 540 nhóm hay còn gọi là 540 bộ. Thí dụ, những chữ 論 (luận), 謂 (vị), 語 (ngữ) đều liên quan tới ngôn ngữ, lời nói, đàm luận v.v... nên được xếp chung vào một bộ, lấy 言 (ngôn: nói) làm bộ thủ. Đến đời Minh, Mai Ưng Tộ 梅膺祚 xếp gọn lại còn 214 bộ thủ và được dùng làm chuẩn cho đến nay. Phần lớn các bộ thủ của 214 bộ đều là chữ tượng hình và hầu như dùng làm bộ phận chỉ ý nghĩa trong các chữ theo cấu tạo hình thanh (hay hài thanh). Mỗi chữ hình thanh gồm bộ phận chỉ ý nghĩa (hay nghĩa phù 義符) và bộ phận chỉ âm (hay âm phù 音符). Đa số Hán tự là chữ hình thanh, nên tinh thông bộ thủ là một điều kiện thuận lợi tìm hiểu hình-âm-nghĩa của Hán tự. Tuy nhiên 214 bộ truyền thống này cũng có những điều bất hợp lý, và vài hệ thống bộ thủ cải cách đã ra đời chẳng hạn 132 bộ thủ của Lục Y Ngôn 陸衣言 và Giang Trọng Quỳnh 江仲瓊 phân loại Hán tự theo nét hay nhóm nét đầu tiên nên sự tra cứu rất nhanh chóng. Sự giản hóa Hán tự gây thêm rắc rối về bộ thủ:
* Bộ thủ bị thay đổi: 寫 (tả: viết; bộ 宀) giản thành 写 (bộ 冖) 護 (hộ: giúp; bộ 言) giản thành 护 (bộ 扌).
* Bộ thủ bị bỏ bớt: 電 (điện: điện lực) giản thành 电; 殺 (sát: giết) giản thành 杀; 術 (thuật: cách thức) giản thành 术.
* Bộ thủ cùng với vài nét khác bị bỏ bớt: 聲 (thanh: âm thanh) giản thành 声; 從 (tòng: theo) giản thành 从; 滅 (diệt: tiêu diệt) giản thành 灭.
* Bộ thủ mất vì trọn chữ bị thay trọn: 備 (bị: đầy đủ; bộ亻) giản thành 备; 農 (nông: nghề nông; bộ 辰) giản thành 农; 歲 (tuế: năm; bộ 止) giản thành 岁; 買 (mãi: mua; bộ 貝) giản thành 买; 關 (quan: quan hệ; bộ 門) giản thành 关.
Vậy thì sự giản hóa đã phớt lờ bộ thủ, nhưng hậu quả là người ta lúng túng khi tra một chữ mới mà không biết âm và nghĩa. Hầu hết các tự điển hay từ điển Hán ngữ tại Hoa Lục đều xếp các mục tự (entries) theo âm pinyin. Nếu không biết âm pinyin thì người tra đành chịu thua. Để gỡ rối, người soạn tự điển hay từ điển phải đính thêm các bảng tra theo tổng số nét, hoặc tra theo nét bút đầu tiên, và sau cùng phải miễn cưỡng kèm thêm bảng tra theo bộ thủ khoảng 189 bộ và rất khác với bảng tra 214 bộ truyền thống. Ngoài ra việc đếm nét của bộ thủ dễ bị lầm, như bộ thảo 艹 cũ đếm là 4 nét thì bộ thảo 艹 mới kể là 3 nét. Rồi tự điển hay từ điển cũng phải tra được cả giản thể lẫn phồn thể nên diệp (lá cây) giản thể 叶 thì cho vào bộ khẩu 口 còn diệp phồn thể 葉 thì cho vào bộ thảo 艹.
Nói gọn, việc giản hóa Hán tự có cả ưu lẫn khuyết. Nhưng con người còn chưa hoàn hảo được thì một sản phẩm do con người tạo tác cũng chỉ là hướng về sự hoàn hảo mà thôi. Thói quen và sự nhẫn nại sẽ giúp ta tinh thông hai thể giản và phồn.
Nói gọn, việc giản hóa Hán tự có cả ưu lẫn khuyết. Nhưng con người còn chưa hoàn hảo được thì một sản phẩm do con người tạo tác cũng chỉ là hướng về sự hoàn hảo mà thôi. Thói quen và sự nhẫn nại sẽ giúp ta tinh thông hai thể giản và phồn.