(Sưu tầm từ internet)
Sự giản hóa (simplification) chữ Hán do Nhà nước Trung Quốc tích cực đề ra ngay từ khi cầm quyền năm 1949 và chính thức công bố Hán Tự Giản Hóa Phương Án 汉字简化方案 vào tháng giêng năm 1956.
Thực tế, giản hóa Hán tự là một quá trình tiệm tiến từ lâu đời. Những chữ Hán giản hóa thường gọi là phá thể 破体, tiểu tả 小写, giản thể tự 简体字, giản dị tự 简易字, giản tự 简字, thủ tả tự 手写字, tục thể tự 俗体字, v.v... đối ứng với chữ nguyên thể đầy đủ nét là phồn thể tự 繁体字. Chữ giản thể đã xuất hiện trước thời Nam Bắc Triều 南北朝 (420-581); đến đời Đường 唐 (618-907) và Tống 宋 (960-1279) thì dần dần tăng thêm và phần lớn lưu hành trong dân gian. Trong các tác phẩm thư pháp cổ đại, những bia khắc, ván khắc in khai quật được, và trên mặt các chuông đồng cổ đại người ta có thể thấy lác đác một vài chữ giản thể thông thường như: sư 师, vạn 万, quốc 国, vân 云, lễ 礼, khí 气, môn 门, vi 为, bảo 宝, la 罗, lưu 刘, hoan 欢, nan 难, tề 齐, đương (đang)当, hội 会, phong 风, loạn 乱, biện 办, thính 听, tòng 从, chúng 众, vô 无, v.v...
Sự giản hóa (simplification) chữ Hán do Nhà nước Trung Quốc tích cực đề ra ngay từ khi cầm quyền năm 1949 và chính thức công bố Hán Tự Giản Hóa Phương Án 汉字简化方案 vào tháng giêng năm 1956.
Thực tế, giản hóa Hán tự là một quá trình tiệm tiến từ lâu đời. Những chữ Hán giản hóa thường gọi là phá thể 破体, tiểu tả 小写, giản thể tự 简体字, giản dị tự 简易字, giản tự 简字, thủ tả tự 手写字, tục thể tự 俗体字, v.v... đối ứng với chữ nguyên thể đầy đủ nét là phồn thể tự 繁体字. Chữ giản thể đã xuất hiện trước thời Nam Bắc Triều 南北朝 (420-581); đến đời Đường 唐 (618-907) và Tống 宋 (960-1279) thì dần dần tăng thêm và phần lớn lưu hành trong dân gian. Trong các tác phẩm thư pháp cổ đại, những bia khắc, ván khắc in khai quật được, và trên mặt các chuông đồng cổ đại người ta có thể thấy lác đác một vài chữ giản thể thông thường như: sư 师, vạn 万, quốc 国, vân 云, lễ 礼, khí 气, môn 门, vi 为, bảo 宝, la 罗, lưu 刘, hoan 欢, nan 难, tề 齐, đương (đang)当, hội 会, phong 风, loạn 乱, biện 办, thính 听, tòng 从, chúng 众, vô 无, v.v...
Như vậy từ giáp cốt văn 甲骨文 cho đến chữ khải 楷 mà ngày nay chúng ta đang dùng, xu hướng diễn biến của Hán tự hơn 3000 năm qua là từ phức tạp đến giản dị. Bảng chữ giản thể hiện hành do Nhà nước Trung Quốc quy định chẳng qua là kết quả của sự hệ thống, chỉnh lý và bổ sung các chữ giản thể đã lưu hành từ lâu trong dân gian.
Những năm Dân Quốc đầu tiên, một số học giả như Lục Phí Quỳ 陆费逵, Tiền Huyền Đồng 钱玄同, Lục Cơ 陆基, Lê Cẩm Hy 黎锦熙, Dương Thụ Đạt 杨树达, Trần Hạc Cầm 陈鹤琴, Hồng Thâm 洪深, Trần Vọng Đạo 陈望道, v.v... đã đề xướng dùng chữ giản thể vì sự tiện lợi của nó. Tháng 8 năm 1935, Bộ Giáo Dục của chính phủ Quốc Dân Đảng (国民党政府教育部) công bố một bảng kê các chữ Hán giản thể gọi là Đệ nhất phê giản thể tự biểu 第一批简体字表 gồm 324 chữ. Đây là lần thứ nhất chữ giản thể được chính thức ban hành. Nhưng giới văn nhân học giả cực lực phản đối chữ giản thể cho nên tháng 2 năm 1936 bảng kê chữ giản thể bị phế bỏ sau 6 tháng ban hành. Tuy nhiên trong dân gian nhiều người vẫn thích dùng chữ giản thể để viết chữ cho nhanh. Trong thời chiến tranh kháng Nhật, khu vực giải phóng do Đảng Cộng Sản Trung Quốc lãnh đạo, chữ giản thể được lưu hành và nhiều chữ mới được tạo thêm.
Những năm Dân Quốc đầu tiên, một số học giả như Lục Phí Quỳ 陆费逵, Tiền Huyền Đồng 钱玄同, Lục Cơ 陆基, Lê Cẩm Hy 黎锦熙, Dương Thụ Đạt 杨树达, Trần Hạc Cầm 陈鹤琴, Hồng Thâm 洪深, Trần Vọng Đạo 陈望道, v.v... đã đề xướng dùng chữ giản thể vì sự tiện lợi của nó. Tháng 8 năm 1935, Bộ Giáo Dục của chính phủ Quốc Dân Đảng (国民党政府教育部) công bố một bảng kê các chữ Hán giản thể gọi là Đệ nhất phê giản thể tự biểu 第一批简体字表 gồm 324 chữ. Đây là lần thứ nhất chữ giản thể được chính thức ban hành. Nhưng giới văn nhân học giả cực lực phản đối chữ giản thể cho nên tháng 2 năm 1936 bảng kê chữ giản thể bị phế bỏ sau 6 tháng ban hành. Tuy nhiên trong dân gian nhiều người vẫn thích dùng chữ giản thể để viết chữ cho nhanh. Trong thời chiến tranh kháng Nhật, khu vực giải phóng do Đảng Cộng Sản Trung Quốc lãnh đạo, chữ giản thể được lưu hành và nhiều chữ mới được tạo thêm.
Đến năm 1949, khi nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa thành lập, Đảng và chính phủ càng coi trọng công tác giản hóa Hán tự, nên đề ra phương án giản hóa chữ Hán gọi là Hán tự giản hóa phương án 汉字简化方案. Năm 1950, Ty Giáo Dục Xã Hội thuộc Bộ Giáo Dục của Chính Phủ Nhân Dân Trung Ương (中央人民政府教育部社会 教育司) biên soạn Thường dụng giản thể tự đăng ký biểu 常用简体字登记表 gồm 555 chữ Hán giản thể thông dụng. Sau khi trưng cầu dân ý, năm 1951 chính phủ ban hành một bảng kê các chữ Hán giản thể gọi là Đệ nhất phê giản thể tự biểu 第一批简体字表 gồm 555 chữ (khác với bảng kê trước đây vào năm 1935 của Bộ Giáo Dục thuộc chính phủ Quốc Dân Đảng, chỉ có 324 chữ).
Ngày 5 tháng 2 năm 1952, Trung Quốc văn tự cải cách nghiên cứu ủy viên hội 中国文字改革研究委员会 được thành lập. Trên cơ sở Đệ nhất phê giản thể tự biểu 第一批简体字表 , tổ chức này đã nhiều lần thảo luận và tu sửa, để rồi đến năm 1954 một phương án dự thảo được đưa ra gọi là Hán tự giản hóa phương án (thảo án) 汉字简化方案(草案) bao gồm ba điểm: 1. Dự thảo 798 chữ giản thể; 2, Đề nghị phế bỏ 400 chữ dị thể 异体字; 3. Dự thảo giản hóa các chữ Hán thiên bàng 偏旁 (tức là chữ Hán làm bộ phận đứng một phía của chữ).
Tháng 12 năm 1954, Trung Quốc văn tự cải cách ủy viên hội 中国文字改革委员会 (trực thuộc Quốc Vụ Viện 国务院) được thành lập để chuyên trách công tác giản hóa Hán tự (tổ chức này đến ngày 16 tháng 12 năm 1985 thì đổi tên là Quốc gia ngữ ngôn văn tự công tác ủy viên hội 国家语言文字工作委员会). Ngày 13 tháng 7 năm 1955, Quốc Vụ Viện thành lập Hán tự giản hóa phương án thẩm đính ủy viên hội 汉字简化方案审订委员会 để đánh giá phương án giản hóa chữ Hán. Tháng 9 năm 1955, Trung Quốc văn tự cải cách ủy viên hội 中国文字改革委员会 đề xuất một bản tu chính thảo án, trong ba điểm nêu ra trước đây thì bỏ hai điểm sau, còn điểm thứ nhất (là đề nghị 798 chữ Hán giản thể) nay rút xuống còn 512 chữ, ngoài ra thêm 56 chữ Hán thiên bàng 偏旁.
Từ ngày 15 đến 23 tháng 10 năm 1955, Trung Quốc văn tự cải cách ủy viên hội và Bộ Giáo Dục liên kết mở ra hội nghị toàn quốc về cải cách văn tự (gọi là Toàn quốc văn tự cải cách hội nghị 全国文字改革会议) để thảo luận và tu chính thảo án. Kết quả là 512 chữ giản thể tăng lên là 555 chữ và 56 chữ Hán thiên bàng 偏旁 giảm xuống còn 54 chữ.
Ngày 5 tháng 2 năm 1952, Trung Quốc văn tự cải cách nghiên cứu ủy viên hội 中国文字改革研究委员会 được thành lập. Trên cơ sở Đệ nhất phê giản thể tự biểu 第一批简体字表 , tổ chức này đã nhiều lần thảo luận và tu sửa, để rồi đến năm 1954 một phương án dự thảo được đưa ra gọi là Hán tự giản hóa phương án (thảo án) 汉字简化方案(草案) bao gồm ba điểm: 1. Dự thảo 798 chữ giản thể; 2, Đề nghị phế bỏ 400 chữ dị thể 异体字; 3. Dự thảo giản hóa các chữ Hán thiên bàng 偏旁 (tức là chữ Hán làm bộ phận đứng một phía của chữ).
Tháng 12 năm 1954, Trung Quốc văn tự cải cách ủy viên hội 中国文字改革委员会 (trực thuộc Quốc Vụ Viện 国务院) được thành lập để chuyên trách công tác giản hóa Hán tự (tổ chức này đến ngày 16 tháng 12 năm 1985 thì đổi tên là Quốc gia ngữ ngôn văn tự công tác ủy viên hội 国家语言文字工作委员会). Ngày 13 tháng 7 năm 1955, Quốc Vụ Viện thành lập Hán tự giản hóa phương án thẩm đính ủy viên hội 汉字简化方案审订委员会 để đánh giá phương án giản hóa chữ Hán. Tháng 9 năm 1955, Trung Quốc văn tự cải cách ủy viên hội 中国文字改革委员会 đề xuất một bản tu chính thảo án, trong ba điểm nêu ra trước đây thì bỏ hai điểm sau, còn điểm thứ nhất (là đề nghị 798 chữ Hán giản thể) nay rút xuống còn 512 chữ, ngoài ra thêm 56 chữ Hán thiên bàng 偏旁.
Từ ngày 15 đến 23 tháng 10 năm 1955, Trung Quốc văn tự cải cách ủy viên hội và Bộ Giáo Dục liên kết mở ra hội nghị toàn quốc về cải cách văn tự (gọi là Toàn quốc văn tự cải cách hội nghị 全国文字改革会议) để thảo luận và tu chính thảo án. Kết quả là 512 chữ giản thể tăng lên là 555 chữ và 56 chữ Hán thiên bàng 偏旁 giảm xuống còn 54 chữ.
Sau khi có được sự thẩm định và hiệu đính của Hán tự giản hóa phương án thẩm đính ủy viên hội, ngày 28 tháng 01 năm 1956 Quốc Vụ Viện đã mở hội nghị khoáng đại lần thứ 23 để thông qua Hán tự giản hóa phương án. Ngày 31 tháng 01 năm 1956, Nhân Dân Nhật Báo đăng nghị quyết của Quốc Vụ Viện về việc công bố Hán tự giản hóa phương án (nhan đề bài báo là: Quan vu công bố «Hán tự giản hóa phương án» đích quyết nghị 关于公布 «汉字简化方案的» 决议) đồng thời đăng Hán tự giản hóa phương án 汉字简化方案 gồm 555 chữ giản thể và 56 chữ Hán thiên bàng.
Tháng 5 năm 1964, Trung Quốc văn tự cải cách ủy viên hội xuất bản Giản hóa tự tổng biểu 简化字总表, gồm ba bảng biểu: Biểu 1 gồm 352 chữ giản hóa không làm bộ phận thiên bàng cho chữ khác; biểu 2 gồm 132 chữ hoặc đứng riêng hoặc làm bộ phận thiên bàng cho chữ khác và 14 chữ chỉ làm thiên bàng; bảng 3 gồm 1754 chữ khai triển từ bảng 2. Như vậy tổng biểu có 2238 chữ giản thể.
Trong thời Cách mạng Văn hóa (thường gọi là Văn Cách 文革), Trung Quốc văn tự cải cách ủy viên hội buộc phải đình chỉ, đến năm 1972 mới khôi phục công tác. Tháng 5 năm 1975, tổ chức này đề ra một thảo án mới gọi là Đệ nhị thứ Hán tự giản hóa phương án (thảo án) 第二次汉字简化方案(草案), gởi cho Quốc Vụ Viện thẩm duyệt. Sau đó, ngày 20 tháng 5 năm 1977, tổ chức này lại gởi tiếp một báo cáo để xin ý kiến nói về thảo án trên, nhan đề: Quan vu «đệ nhị thứ Hán tự giản hóa phương án (thảo án)» đích thỉnh thị báo cáo 关于 «第二次汉字简化方案(草案)» 的请示报告.
Ngày 31 tháng 10 năm 1977, Quốc Vụ Viện chỉ đạo cho đăng tải đệ nhị thứ Hán tự phương án (thảo án) này trên các nhật báo của tỉnh, thành, khu tự trị để trưng cầu ý kiến của quảng đại quần chúng, của các giới công, nông, binh và nhân sĩ. Nhưng thảo án 2 này không được nghiên cứu chu đáo và do đó bị phản đối kịch liệt. Thí dụ: Chữ vũ 舞 giản thành 午 (ngọ), khiến vũ hội 舞会 bị hiểu nhầm là ngọ hội 午会 (hội nghị lúc trưa) bởi vì cả hai đều pháy ấm là /wǔhùi/; chữ linh 齡 (trong niên linh 年齡: tuổi tác) giản thành 令 (lệnh), khiến quân linh 軍齡 (tuổi lính) /jūnlíng/ dễ bị hiểu nhầm là quân lệnh 军令 /jūnlìng/, chữ bang 幫 (trong bang trợ 幫助, bang phái 幫派) giản thành bang 邦 (đồng nghĩa với quốc 國); ba chữ phó 副, phó 傅, phụ 腐 (trong phó thực 副食, phó nghiệp 副業, phó chức 副職, sư phó 師傅, đậu phụ 豆腐) đều giản thành phó 付; chữ đình 停 (trong đình chỉ 停止) giản thành 仃 (đinh), nhầm với đinh trong linh đinh 伶仃; v.v...
Tháng 5 năm 1964, Trung Quốc văn tự cải cách ủy viên hội xuất bản Giản hóa tự tổng biểu 简化字总表, gồm ba bảng biểu: Biểu 1 gồm 352 chữ giản hóa không làm bộ phận thiên bàng cho chữ khác; biểu 2 gồm 132 chữ hoặc đứng riêng hoặc làm bộ phận thiên bàng cho chữ khác và 14 chữ chỉ làm thiên bàng; bảng 3 gồm 1754 chữ khai triển từ bảng 2. Như vậy tổng biểu có 2238 chữ giản thể.
Trong thời Cách mạng Văn hóa (thường gọi là Văn Cách 文革), Trung Quốc văn tự cải cách ủy viên hội buộc phải đình chỉ, đến năm 1972 mới khôi phục công tác. Tháng 5 năm 1975, tổ chức này đề ra một thảo án mới gọi là Đệ nhị thứ Hán tự giản hóa phương án (thảo án) 第二次汉字简化方案(草案), gởi cho Quốc Vụ Viện thẩm duyệt. Sau đó, ngày 20 tháng 5 năm 1977, tổ chức này lại gởi tiếp một báo cáo để xin ý kiến nói về thảo án trên, nhan đề: Quan vu «đệ nhị thứ Hán tự giản hóa phương án (thảo án)» đích thỉnh thị báo cáo 关于 «第二次汉字简化方案(草案)» 的请示报告.
Ngày 31 tháng 10 năm 1977, Quốc Vụ Viện chỉ đạo cho đăng tải đệ nhị thứ Hán tự phương án (thảo án) này trên các nhật báo của tỉnh, thành, khu tự trị để trưng cầu ý kiến của quảng đại quần chúng, của các giới công, nông, binh và nhân sĩ. Nhưng thảo án 2 này không được nghiên cứu chu đáo và do đó bị phản đối kịch liệt. Thí dụ: Chữ vũ 舞 giản thành 午 (ngọ), khiến vũ hội 舞会 bị hiểu nhầm là ngọ hội 午会 (hội nghị lúc trưa) bởi vì cả hai đều pháy ấm là /wǔhùi/; chữ linh 齡 (trong niên linh 年齡: tuổi tác) giản thành 令 (lệnh), khiến quân linh 軍齡 (tuổi lính) /jūnlíng/ dễ bị hiểu nhầm là quân lệnh 军令 /jūnlìng/, chữ bang 幫 (trong bang trợ 幫助, bang phái 幫派) giản thành bang 邦 (đồng nghĩa với quốc 國); ba chữ phó 副, phó 傅, phụ 腐 (trong phó thực 副食, phó nghiệp 副業, phó chức 副職, sư phó 師傅, đậu phụ 豆腐) đều giản thành phó 付; chữ đình 停 (trong đình chỉ 停止) giản thành 仃 (đinh), nhầm với đinh trong linh đinh 伶仃; v.v...
Thảo án 2 gây thêm hỗn loạn trong chữ Hán. Do đó ngày 4 tháng 3 năm 1978, các học giả Vương Lực 王力, Hồ Dũ Chi 胡愈之, Chu Hữu Quang 周有光 và 20 học giả nổi tiếng khác đã yêu cầu Quốc Vụ Viện phế bỏ thảo án 2. Mãi đến ngày 24 tháng 6 năm 1986, Quốc Vụ Viện ra thông tri phế bỏ thảo án 2.
Sau khi thảo án 2 bị phế bỏ, chữ giản thể vẫn bị dùng hỗn loạn, ngoài những chữ được quy định, dân gian còn tự sáng tạo thêm chữ mới rất tùy tiện. Cho nên vào các ngày 27 tháng 3, 01 và 10 tháng 4 năm 1978, Quốc gia ngữ ngôn văn tự công tác ủy viên hội liên tiếp phát ba thông tri: 1/. thông tri quy định viết các địa danh; 2/. thông tri quy định sử dụng chữ Hán trên truyền hình, radio, trong điện ảnh; 3/. thông tri quy định sử dụng chữ Hán trên các bảng hiệu tiệm buôn, bảng hiệu công ty, thương tiêu, bao bì sản phẩm, quảng cáo.
Ngày 24 tháng 6 năm 1986, Quốc Vụ Viện ra thông tri yêu cầu các nhật báo lớn như Nhân Dân Nhật Báo 人民日报, Quang Minh Nhật Báo 光明日报 đăng lại Giản hóa tự tổng biểu 简化字总表. Ngày 10 tháng 10 năm 1986, Quốc gia ngữ ngôn văn tự công tác ủy viên hội điều chỉnh lại Giản hóa tự tổng biểu năm 1964, và tổng biểu mới gồm có 2235 chữ.
Ngày 26 tháng 01 năm 1988, Quốc gia ngữ ngôn văn tự công tác ủy viên hội và Quốc gia giáo dục ủy viên hội công bố Hiện đại Hán ngữ thường dụng tự biểu 现代汉语常用字表 gồm 3500 chữ Hán thường dùng hiện nay, trong đó có 1116 chữ giản hóa (chiếm 31.9 %).
Sau khi thảo án 2 bị phế bỏ, chữ giản thể vẫn bị dùng hỗn loạn, ngoài những chữ được quy định, dân gian còn tự sáng tạo thêm chữ mới rất tùy tiện. Cho nên vào các ngày 27 tháng 3, 01 và 10 tháng 4 năm 1978, Quốc gia ngữ ngôn văn tự công tác ủy viên hội liên tiếp phát ba thông tri: 1/. thông tri quy định viết các địa danh; 2/. thông tri quy định sử dụng chữ Hán trên truyền hình, radio, trong điện ảnh; 3/. thông tri quy định sử dụng chữ Hán trên các bảng hiệu tiệm buôn, bảng hiệu công ty, thương tiêu, bao bì sản phẩm, quảng cáo.
Ngày 24 tháng 6 năm 1986, Quốc Vụ Viện ra thông tri yêu cầu các nhật báo lớn như Nhân Dân Nhật Báo 人民日报, Quang Minh Nhật Báo 光明日报 đăng lại Giản hóa tự tổng biểu 简化字总表. Ngày 10 tháng 10 năm 1986, Quốc gia ngữ ngôn văn tự công tác ủy viên hội điều chỉnh lại Giản hóa tự tổng biểu năm 1964, và tổng biểu mới gồm có 2235 chữ.
Ngày 26 tháng 01 năm 1988, Quốc gia ngữ ngôn văn tự công tác ủy viên hội và Quốc gia giáo dục ủy viên hội công bố Hiện đại Hán ngữ thường dụng tự biểu 现代汉语常用字表 gồm 3500 chữ Hán thường dùng hiện nay, trong đó có 1116 chữ giản hóa (chiếm 31.9 %).